Một trong những quyền làm chủ mà cổ đông được thực hiện đối với công ty cổ phần mà mình sở hữu cổ phần đó là có quyền kiến nghị về nội dung và chương trình của cuộc họp Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) của doanh nghiệp để được đưa dự kiến chương trình và nội dung cuộc họp. Theo đó, khi kiến nghị thỏa mãn các điều kiện về hình thức và nội dung theo quy định của pháp luật thì người triệu tập ĐHĐCĐ có nghĩa vụ phải chấp thuận. Tuy nhiên, trong trường hợp kiến nghị của cổ đông được gửi đến không thỏa mãn các điều kiện theo quy định thì việc từ chối kiến nghị của cổ đông là quyền hay nghĩa vụ của người triệu tập ĐHĐCĐ?
Quyền kiến nghị của cổ đông và nghĩa vụ chấp thuận kiến nghị của người triệu tập Đại hội đồng cổ đông
Trong quá trình triệu tập ĐHĐCĐ của công ty cổ phần, người triệu tập ĐHĐCĐ có trách nhiệm chuẩn bị chương trình, nội dung cuộc họp theo quy định tại khoản 1 Điều 142 Luật Doanh nghiệp 2020. Đồng thời, chương trình này phải được người triệu tập ĐHĐCĐ gửi kèm theo thông báo mời họp đến tất cả cổ đông trong danh sách cổ đông có quyền dự họp chậm nhất là 21 ngày trước ngày khai mạc cuộc họp ĐHĐCĐ.
Căn cứ trên nội dung chương trình dự kiến mà người triệu tập ĐHĐCĐ đã chuẩn bị, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 05% tổng số cổ phần phổ thông trở lên (hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy định tại Điều lệ công ty) có quyền kiến nghị vấn đề đưa vào chương trình họp. Theo đó, khi các kiến nghị đáp ứng các điều kiện được đặt ra theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty thì người triệu tập ĐHĐCĐ có nghĩa vụ phải chấp nhận và đưa kiến nghị vào dự kiến chương trình và nội dung cuộc họp.
Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 142 Luật Doanh nghiệp 2020, các điều kiện mà kiến nghị của cổ đông cần đáp ứng bao gồm:
- Kiến nghị phải bằng văn bản;
- Kiến nghị phải được gửi đến công ty chậm nhất là 03 ngày làm việc trước ngày khai mạc, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định thời hạn khác.
- Kiến nghị phải ghi rõ tên cổ đông, số lượng từng loại cổ phần của cổ đông, vấn đề kiến nghị đưa vào chương trình họp.
Ngược lại, khi các kiến nghị của cổ đông được gửi đến nhưng không đảm bảo các điều kiện được quy định tại khoản 2 Điều 142 Luật Doanh nghiệp 2020 thì người triệu tập ĐHĐCĐ có quyền chấp thuận hay bắt buộc phải từ chối những kiến nghị này lại chưa được quy định rõ ràng và gây ra nhiều cách hiểu khi áp dụng trên thực tiễn.
Từ chối kiến nghị không thỏa mãn điều kiện là quyền hay nghĩa vụ?
Khoản 3 Điều 142 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định như sau:
“3. Trường hợp người triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông từ chối kiến nghị quy định tại khoản 2 Điều này thì chậm nhất là 02 ngày làm việc trước ngày khai mạc cuộc họp Đại hội đồng cổ đông phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông chỉ được từ chối kiến nghị nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Kiến nghị được gửi đến không đúng quy định tại khoản 2 Điều này;”
Với cách quy định “chỉ được từ chối…nếu” nêu trên đã dẫn đến hai cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng trên thực tiễn cũng khác nhau như sau:
Cách hiểu thứ nhất, khi kiến nghị của cổ đông gửi đến thuộc các trường hợp được liệt kê tại khoản 3 Điều 142 Luật Doanh nghiệp thì người triệu tập ĐHĐCĐ có nghĩa vụ phải từ chối các kiến nghị này mà không có quyền xem xét, đánh giá và đưa ra quyết định khác đi. Nói cách khác, quy định này chính là quy định mang tính “đóng”, khi rơi vào các trường hợp được liệt kê, người triệu tập ĐHĐCĐ chỉ có một cách hành xử duy nhất là từ chối kiến nghị của cổ đông mà không có quyền lựa chọn nào khác, dù cho việc gửi kiến nghị đến muộn xuất phát từ lý do khách quan và/hoặc những kiến nghị của cổ đông mang tính cấp bách và đặc biệt quan trọng ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp.
Trong trường hợp, nếu người triệu tập ĐHĐCĐ chấp thuận đưa các kiến nghị của cổ đông được gửi đến nhưng không đảm bảo các điều kiện được quy định tại khoản 2 Điều 142 Luật Doanh nghiệp 2020 vào dự kiến chương trình và nội dung cuộc họp sẽ được xem là hành vi vi phạm trình tự, thủ tục triệu tập ĐHĐCĐ, là căn cứ để hủy bỏ Nghị quyết ĐHĐCĐ theo quy định tại khoản 1 Điều 151 Luật Doanh nghiệp 2020.
Đây cũng chính là cách hiểu và hướng tiếp cận của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè trong Quyết định sơ thẩm số 78/2022/QĐST-KDTM ngày 25/10/2022 và Tòa án nhân dân TP.HCM trong Quyết định phúc thẩm số 505/2023/QĐDS-PT ngày 25/04/2023. Theo đó, cả hai cấp tòa đều cho rằng việc Hội đồng quản trị của công ty chấp thuận kiến nghị không đúng thời hạn là vi phạm quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 142 Luật Doanh nghiệp 2020 để làm căn cứ tuy hủy bỏ nghị quyết ĐHĐCĐ của công ty.
Cách hiểu thứ hai, khi kiến nghị của cổ đông gửi đến thuộc các trường hợp được liệt kê tại khoản 3 Điều 142 Luật Doanh nghiệp thì người triệu tập ĐHĐCĐ có quyền xem xét và đưa ra quyết định chấp thuận hoặc từ chối các kiến nghị này. Điều khoản này được đặt ra nhằm hạn chế quyền “từ chối” của người triệu tập ĐHĐCĐ mà không nhằm hạn chế quyền “chấp thuận” của người triệu tập ĐHĐCĐ.
Đây cũng chính là cách hiểu và hướng tiếp cận của Luật Doanh nghiệp 2014. Theo đó, tại khoản 3 Điều 138 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định vấn đề này như sau: “ Người triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông có quyền từ chối kiến nghị quy định tại khoản 2 Điều này nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:a) Kiến nghị được gửi đến không đúng thời hạn hoặc không đủ, không đúng nội dung; […]”. Như vậy, có thể thấy rằng, các nhà lập pháp khi xây dựng Luật Doanh nghiệp 2014 đã trao cho người triệu tập ĐHĐCĐ quyền được xem xét, đánh giá và đưa ra quyết định “chấp thuận” hay “từ chối” các kiến nghị của cổ đông khi các kiến nghị này không đáp ứng các điều kiện về thời hạn và nội dung. Nói cách khác, với cách quy định tại Luật Doanh nghiệp 2014 có thể hiểu rằng từ chối kiến nghị của cổ đông trong trường hợp kiến nghị không thỏa mãn điều kiện theo quy định là quyền của người triệu tập ĐHĐCĐ.
Là quyền từ chối thì sẽ đảm bảo được tối ưu quyền lợi của cổ đông hơn
Trong công ty cổ phần, cổ đông chính là những người sở hữu vốn điều lệ của doanh nghiệp, là những người chủ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, bởi tính chất đối vốn và quy mô của loại hình doanh nghiệp này, quyền hạn và nghĩa vụ của cổ đông cũng có phần hạn chế hơn so với các ông chủ doanh nghiệp của các loại hình doanh nghiệp khác.
Một trong những quyền hạn quan trọng của cổ đông để có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý của doanh nghiệp chính là quyền kiến nghị vấn đề đưa vào chương trình họp ĐHĐCĐ và tham dự, biểu quyết tại cuộc họp ĐHĐCĐ của doanh nghiệp. Do đó, các điều khoản của pháp luật đều đang được xây dựng theo hướng đảm bảo quyền lợi của cổ đông và tránh việc các cá nhân, tổ chức quản lý hạn chế một cách bất hợp pháp những quyền lợi tối thiểu quyền của cổ đông. Bởi lẽ, xét cho cùng, mọi quyết định quản lý, điều hành doanh nghiệp của những người quản lý trong công ty cổ phần đều hướng đến mục tiêu trung thành với lợi ích và nhằm đảm bảo lợi ích tối đa của công ty và cổ đông.
Chính vì vậy, việc pháp luật liệt kê ra các trường hợp cụ thể để người triệu tập ĐHĐCĐ được phép từ chối kiến nghị của cổ đông để loại trừ các trường hợp người triệu tập ĐHĐCĐ cố tình không chấp thuận ý kiến của cổ đông, hạn chế quyền của cổ đông. Còn trong trường hợp, mặc dù cổ đông gửi kiến nghị không đảm bảo điều kiện nhưng xuất phát từ lý do khách quan và/hoặc những kiến nghị của cổ đông mang tính cấp bách và đặc biệt quan trọng ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp thì việc xem xét, chấp thuận kiến nghị của cổ đông là một việc làm cần thiết, đảm bảo quyền lợi của cổ đông và vì lợi ích chính đáng của doanh nghiệp.
Hơn nữa, để có những đánh giá mang tính khách quan và toàn diện nên xem xét đến giá trị, ý nghĩa và sự tác động của việc người triệu tập ĐHĐCĐ chấp thuận hay từ chối kiến nghị của cổ đông. Căn cứ theo quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 142 Luật Doanh nghiệp 2020 thì pháp luật chỉ đang trao quyền cho người triệu tập ĐHĐCĐ quyết định chấp thuận để đưa kiến nghị của cổ đông vào dự kiến chương trình và nội dung cuộc họp. Còn kiến nghị của cổ đông có được chính thức bổ sung vào chương trình và nội dung cuộc họp sẽ do Đại hội đồng cổ đông quyết định.
Hơn nữa, sau khi kiến nghị được ĐHĐCĐ chấp thuận đưa vào chương trình và nội dung cuộc họp thì kiến nghị này cũng sẽ không đương nhiên được hiểu kiến nghị này được ĐHĐCĐ thông qua và có giá trị áp dụng trên thực tiễn. Mà sau khi được ĐHĐCĐ chấp thuận đưa vào chương trình và nội dung cuộc họp thì nội dung kiến nghị này còn phải trải qua một bước là trình để ĐHĐCĐ xem xét và biểu quyết thông qua. Khi đó, sẽ tùy nội dung của kiến nghị mà tỷ lệ biểu quyết được thông qua sẽ là trên 50% hoặc trên 65% hoặc một tỷ lệ khác do điều lệ công ty quy định.
Như vậy, việc chấp thuận hay từ chối kiến nghị này của người triệu tập ĐHĐCĐ chỉ là bước đầu xem xét về mặt hình thức để kiến nghị của cổ đông “chạm ngỏ” đến ĐHĐCĐ. Nói cách khác, việc người triệu tập ĐHĐCĐ chấp thuận kiến nghị của cổ đông (dù có thỏa mãn về điều kiện về mặt hình thức hay không) đều không mang ý nghĩa làm cho kiến nghị này có giá trị thực thi trên thực tiễn hoặc gây ra những ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông và cũng không làm thay thế quyền quyết định của ĐHĐCĐ.
Do đó, tác giả thiết nghĩ rằng, việc từ chối kiến nghị của cổ đông khi kiến nghị này không đảm bảo các điều kiện được quy định tại khoản 2 Điều 142 Luật Doanh nghiệp 2020 nên được hiểu là quyền của người triệu tập ĐHĐCĐ là phù hợp. Nghĩa là, trong trường hợp kiến nghị của cổ đông được gửi đến không đảm bảo yêu cầu về mặt hình thức hoặc không đảm bảo thời hạn gửi thì người triệu tập ĐHĐCĐ có quyền đánh giá, xem xét mức độ quan trọng, sự cần thiết và tính cấp thiết của kiến nghị để đưa đến quyết định chấp thuận hay từ chối các kiến nghị này mà không buộc phải từ chối ngay lập tức.
Luật sư Nguyễn Thị Thu Diệu